Việc Làm

Thực trạng xuất khẩu lao động nước ta đối với thị trường Hàn Quốc

Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :

        Tu nghiệp sinh Việt Nam có mặt tại thị trường Hàn Quốc ngay từ giai đoạn đầu của Chương trình thực tập sinh công nghiệp (năm 1993). Trải qua 10 năm thực hiện chương trình này, tính đến tháng 12/2002, số lượng tu nghiệp sinh và lao động của ta đã và đang làm việc tại Hàn Quốc tổng cộng lên đến 30.090 lượt người, đứng thứ ba trong 15 quốc gia có tu nghiệp sinh ở Hàn Quốc. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm nay, ta còn đưa thêm được 2.853 tu nghiệp sinh mới sang thị trường này.

        Con số tu nghiệp sinh Việt Nam đưa sang Hàn Quốc có biến động nhiều qua các năm, trung bình ở mức xấp xỉ 2.800 người/năm. Những năm từ 1994 – 1997, số lượng tu nghiệp sinh của ta sang Hàn Quốc tương đối ổn định trong khoảng trên 3000 người/năm. Năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á, nền kinh tế Hàn Quốc gặp nhiều khó khăn nên trong năm này ta chỉ đưa được 735 tu nghiệp sinh sang tu nghiệp tại đây. Song ngay khi nền kinh tế Hàn Quốc có dấu hiệu phục hồi, số lượng tu nghiệp sinh của ta lập tức lại tăng lên nhanh chóng. Năm 2000 là năm ta đưa được nhiều tu nghiệp sinh đi làm việc tại đây nhất với 6.997 người. Đến năm 2002 vừa qua, con số này giảm giảm xuống mức thấp chưa từng có : 306 người. Hiện tượng này có nguyên nhân từ việc rất nhiều tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp hoặc trốn ở lại Hàn Quốc, không chịu về nước sau khi đã kết thúc hợp đồng. Chỉ tiêu tu nghiệp sinh của Việt Nam được KFSB phân bổ trọn gói là 18.770 người (ngoại trừ 500 tu nghiệp sinh xây dựng phân bổ qua Hiệp hội xây dựng Hàn Quốc) , ta đã sử dụng hết trên 17.000 chỉ tiêu, đến thời điểm ngày 31/12/2002 có tổng cộng 17.457 tu nghiệp sinh ta đang ở Hàn Quốc. Trong khi dó, chính phủ Hàn Quốc quy định, khi tu nghiệp sinh hoàn thành hợp đồng về nước thì các nước mới được đưa tu nghiệp sinh mới nhập cảnh. Với tỷ lệ “thất thoát chỉ tiêu” (do tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng và trốn ở lại Hàn Quốc) lên đến gần 60% như hiện nay thì việc đưa tu nghiệp sinh mới sang Hàn Quốc đối với ta là vô cùng khó khăn.        

Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :

 

        Thị trường Hàn Quốc không yêu cầu tu nghiệp sinh phải là lao động có nghề, do vậy gần như toàn bộ tu nghiệp sinh Việt Nam tại Hàn Quốc là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo nghề. Hầu hết số tu nghiệp sinh và lao động của ta ở đây làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc với các công việc 3D trong những ngành nghề : dệt may, cơ khí, lắp ráp điện tử, mộc… Ngoài ra, ta còn có 169 tu nghiệp sinh xây dựng mới đưa sang Hàn Quốc thời gian vừa qua và 1.100 thuyền viên làm việc trên biển.

        Tỷ lệ tu nghiệp sinh nữ tại Hàn Quốc không cao, ước tính chỉ khoảng trên dưới 25%.

Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :

        Tu nghiệp sinh Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc có mức thu nhập khá cao, tuy trong thời kỳ khủng hoảng tài chính (1997 -1998) có gặp một số khó khăn do tiền lương tối thiểu bị điều chỉnh thấp đi nhiều và một loạt doanh nghiệp không sắp xếp được giờ làm thêm song ngay sau đó đã ổn định trở lại. Trung bình một tu nghiệp sinh hàng tháng có mức thu nhập từ 700 – 1000 USD, cá biệt một số trường hợp có mức thu nhập thấp hơn cũng đạt đến 500 – 600 USD/ người/tháng. Khi chuyển qua chế độ lao động, thu nhập của họ còn cao hơn thế.

        Trung bình hàng năm, Việt Nam nhận được khoảng 350 triệu USD do các tu nghiệp sinh đang làm việc tại thị trường này chuyển về.

Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :

Theo lựa chọn của KFSB, hiện nay chỉ có 9 doanh nghiệp được phép cung cấp tu nghiệp sinh cho Hàn Quốc bao gồm : LOD, TRACIMEXCO, TRACODI, VINACONEX, OLECO, IMS, SULECO, SOLAVICO và gần đây nhất là SIMCO ( thuộc Tổng Công ty xây dựng Sông Đà).

Back to top button
Close
Close