Du học

Thực trạng thất nhiệp ở Việt Nam

Việt nam là một trong những nước kinh tế đang phát triển, quy mô dân số và mật độ dân cư tương đối lớn so với các nước trên thế giới và tốc độ phát triển nhanh, trong lúc đó việc mở rộng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm gặp nhiều hạn chế, như thiếu vốn sản xuất, lao động phân bổ chưa hợp lý, tài nguyên khác chưa được khai thác hợp lý…Càng làm cho chênh lệch giữa cung và cầu về lao động rất lớn, gây ra sức ép về vấn đề giải quyết việc làm trong toàn quốc.

Tính bình quân từ 1976 – 1980 mỗi năm tăng 75 – 80 vạn lao động từ 1981 – 1985 mỗi năm 60-90 vạn lao động và từ năm 1986 – 1991 mỗi năm là 1,06 triệu lao động. Từ năm 1996 đến năm 2001 tăng 1,2 triệu lao động. Bảng dưới đây cho ta thấy mối quan hệ giữa sự gia tăng dân số và nguồn lao động. Do điều kiện kinh tế xã hội điều kiện tự nhiên tài nguyên và trình độ phát triển kinh tế khác nhau giữa các vùng đất nước, nguồn lao động ở các vùng đó có mức tăng và tỉ lệ khác nhau.

Quan hệ cung – cầu trên thị trường lao động ngày càng căng thẳng, thất nghiệp và nhu cầu việc làm đang trở thành sức ép nặng nề cho nền kinh tế.

Số người thất nghiệp là số chênh lệch giữa toàn bộ lực lượng lao động và số người có việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp được tính bằng tỉ số giữa người thất nghiệp với lực lượng lao động. Thất nghiệp ở Việt Nam mang những nét đặc trưng riêng. Khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường, khởi điểm từ năm 1986 đến nay, tỉ lệ người thất nghiệp tăng lên. Theo số liệu bảng tổng điều tra dân số năm 1989 thì người lao động ở lứa tuổi 16- 19 chiếm 48,3%, lứa tuổi từ 16-24 tuổi chiếm 71,2%. Năm 1995, số người thất nghiệp toàn phần trong độ tuổi cả nước đã lên tới con số 2,6 triệu và năm 1996 là 2,5 triệu người. Tỉ lệ người thất nghiệp hữu hình ở các đô thị chiếm từ 9 – 12% nguồn nhân lực trong đó 85%ở lứa tuổi thanh niên và đại bộ phận chưa có nghề. Đây là những tỉ lệ vượt quá giới hạn để đảm bảo an toàn xã hội.

Từ 1991 đến nay, nước ta đạt mức tăng trưởng kinh tế khá, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992 – 1996 tăng bình quân 7,9%/năm, lạm phát được ngăn chặn lại, duy trì ở mức 1 con số, năm 1997 lạm phát là 4,5%/năm và năm 1998 là 3,6%/năm. Sức mua của đồng tiền đã được tăng lên, giá cả ổn định.

Từ năm 1998 là năm tình trạng thất nghiệp ở các thành phố tăng mạnh hơn so với các vùng lãnh thổ.

Số người thất nghiệp ở các đô thị chiếm tỷ lệ cao hơn thất nghiệp ở nông thôn – Năm 1989 tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố là 13,2% và nông thôn là 4% thì tới năm 1996 đã có sự thay đổi: ở thành phố con số này là 8% và ở nông thôn là 4,8%. Trong mấy năm qua, tỷ lệ thất nghiệp cao ở lứa tuổi thanh niên (từ 15 đến 30 tuổi), chiếm 85% tổng số người thất nghiệp và tăng dần.

Năm 1989 số người thất nghiệp ở lứa tuổi này là 1,2 triệu người.

Năm 1991 số người thất nghiệp ở lứa tuổi này là 1,4 triệu người.

Năm 1993 số người thất nghiệp ở lứa tuổi này là 2 triệu người.

Năm 1994 số người thất nghiệp ở lứa tuổi này là 2,3 triệu người.

Năm 1995 số người thất nghiệp ở lứa tuổi này là 2,21 triệu người.

Back to top button
Close
Close